Đề Xuất 3/2023 # Đáp Ứng Của Các Bò Cái Holstein Với Các Thí Nghiệm Xử Lý Tiêm Somatotropin Bò Khác Nhau Trong Giai Đoạn Chuyển Tiếp Và Đầu Kỳ Sữa # Top 8 Like | Europeday2013.com

Đề Xuất 3/2023 # Đáp Ứng Của Các Bò Cái Holstein Với Các Thí Nghiệm Xử Lý Tiêm Somatotropin Bò Khác Nhau Trong Giai Đoạn Chuyển Tiếp Và Đầu Kỳ Sữa # Top 8 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Đáp Ứng Của Các Bò Cái Holstein Với Các Thí Nghiệm Xử Lý Tiêm Somatotropin Bò Khác Nhau Trong Giai Đoạn Chuyển Tiếp Và Đầu Kỳ Sữa mới nhất trên website Europeday2013.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Các mũi tiêm cứ hai tuần một lần bST (0; 5.1; 10.2 hoặc là 15.3 mg bST /ngày) bắt đầu ngày 28 trước khi chờ đẻ và tiếp tục qua ngày 56 sau khi đẻ. 23 trong số 25 bò cái Holstein đẻ lứa con rạ được chỉ định ngẫu nhiên vào 4 nhóm đã hoàn thành trọn vẹn thí nghiệm tương ứng là (7; 5; 6 và 5 con bò cái/ nhóm). VCKAĐ, KLCT và ĐTT đã được ghi chép toàn bộ hàng tuần cả giai đoạn trước và sau khi đẻ và các mẫu máu đã được thu thập ba lần hàng tuần để phân tích ST, Insulin, T4, T3, IGF-I, glucose và axit béo không ester hóa (NEFA). Các sản lượng sữa được ghi chép hàng ngày qua suốt sau khi đẻ đến ngày 60 và các thành phần cấu thành sữa được đo lường một lần trong tuần. Mô hình toán học được sử dụng để phân tích số liệu về các giai đoạn trước và sau khi đẻ kể cả xử lý thí nghiệm, tháng sinh bê và tương tác hai yếu tố. Các bò cái được tiêm 10.2 và 15.3 mg bST sau khi đẻ có nồng độ ST và IGF-I trước khi đẻ trung bình cao hơn. Các mũi tiêm bST trước khi đẻ không làm ảnh hưởng đến KLCT trước khi đẻ hoặc ĐTT trước khi đẻ. Tính trung bình các bò cái được tiêm sau khi đẻ duy trì ĐTT của chúng tốt hơn trong suốt thời gian 60 ngày đầu của chu kỳ sữa. Các bò cái được tiêm hai liều bST cao nhất (10.1 và 15.3 mg/ngày) có nồng độ ST và T3 sau khi đẻ trung bình cao hơn, nhưng IGF-I, T4, glucose và NEFA không khác nhau qua các nhóm. Đã theo dõi thấy không có ảnh hưởng bất lợi của bST tiêm (Asian – Aust . J. Anim . Sci. 2004. Vol 17, No 6 : 784- 793).

Vấn đề đã thấy rõ trong các tài liệu rằng thí nghiệm tiêm bST làm tăng năng suất sữa (Bauman và Vernon, 1993; Bauman, 1999). Năng suất sữa tăng lên do kết quả từ cả hai ảnh hưởng trực tiếp và không trực tiếp của Somatotropin (ST ) theo con đường thay đổi sinh lý, gồm có việc phân chia các chất dinh dưỡng đến các mô tuyến vú và dựa trên số lượng tế bào tuyến vú và các hoạt động tế bào tuyến vú (Bauman và Currie, 1980; Vicini và cs., 1991; Bauman, 2000). Một ảnh hưởng gián tiếp chính của bST là làm tăng lên sự tổng hợp và giải phóng IGF-I và một lượng các protein gắn kết từ gan. Các hoạt động ở gan, mô mỡ, tuyến vú và các mô khác được IGF-I giàn hoà và các ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp toàn bộ của bST dẫn đến năng suất sữa tăng lên (Bauman và Vernon, 1993; Jones và Clemmon 1995; Lucy và cs., 2001). Tình trạng dinh dưỡng có một vai trò quan trọng trong việc điều hoà trục Somatotropin ở hai loài dạ dày đơn và loài nhai lại (Breier và cs., 1986) để làm giàu có các receptor hormone sinh trưởng (GHR) và sự tổng hợp IGF-I và nồng độ huyết tương bị giảm xuống trong thời gian thiếu hụt năng lượng (Lucy và cs., 2001). Trong suốt giai đoạn chuyển tiếp và đầu kỳ sữa, các bò cái cho biết trạng thái năng lượng giảm xuống hoặc độ thiếu hụt tăng lên bởi vì VCKAĐ giảm xuống, đặc biệt là trong giai đoạn đầu kỳ sữa và với khả năng sản xuất tăng lên (Bauman và cs., 1985). Việc làm tăng VCKAĐ của các bò cái sữa theo con đường vận động của hệ thống nội tiết trong suốt giai đoạn chuyển tiếp và đầu kỳ sữa sẽ là một cách để cải tiến cân bằng năng lượng và có lẽ làm tăng tổng hợp IGF-I. Quan trọng là, VCKAĐ lớn hơn trong suốt thời gian các giai đoạn này sẽ chấp nhận tốt hơn các bò cái cao sản để đáp ứng nhu cầu năng lượng của chúng để cho năng suất sữa tăng lên và giảm mức độ huy động lipid và protein trong giai đoạn đầu kỳ sữa

Vấn đề được đưa ra giải thuyết rằng việc sử dụng bST trước khi đẻ có thể có hiệu lực như là một loại thuốc phòng bệnh đối với bệnh sốt sữa và các bệnh do trao đổi chất khác. (Eppard và cs., 1991; Eppard và cs., 1996) và từ hoạt tính nâng cao miễn dịch của bST (Burvenich và cs., 1999; Collier và Vicini, 1997). Tuy nhiên, tiêm liều cao bST (25 mg/ ngày hoặc nhiều hơn) trong thời gian giai đoạn cạn sữa cuối (Bachman và cs., 1992; Eppard và cs., 1996; Putnam và cs. , 1999) và đầu kỳ sữa (Moallem và cs., 1997; Santos và cs., 1999) đã cho đáp ứng không phù hợp đến năng suất sữa sau khi đẻ và đã cải thiện tình trạng sức khỏe. Thí dụ, Putnam và cs .(1999) đã báo cáo rằng liều lượng bST đủ tiết sữa được tiêm trước khi đẻ (500 mg bST / 14 ngày) có một sự gia tăng có ý nghĩa về năng suát sữa, trong khi mà Eppard và cs. (1996) đã báo cáo rằng liều lượng bST giống hệt nhau trước khi đẻ đã không làm tăng lên năng suất sữa lứa đẻ tiếp sau đó hoặc là làm giảm xuống rủi ro bệnh sốt sữa lứa đẻ tiếp sau hoặc là làm giảm xuống rủi ro bệnh sốt sữa. Mặc dầu nhu cầu các chất dinh dưỡng của bò cái tăng lên nhanh chóng sau khi sinh bê và không thể được đáp ứng và không thể được đáp ứng do VCKAĐ tăng lên, dựa trên nghiên cứu ban đầu (Garcia, 1998; Garcia và cs., 2000), chúng ta đã xét thấy rằng tiêm một liều bST thấp hơn trong giai đoạn chuyển tiếp sẽ kích thích VCKAĐ trong thời gian cả hai giai đoạn trước và sau khi đẻ. Như vậy, điều này sẽ giúp hạn chế tối thiểu cân bằng năng lượng bị giảm xuống và có lẽ làm giảm phạm vi ảnh hưởng các bệnh do trao đổi chất ở các bò cái sữa cao sản xung quanh thời gian sinh đẻ và dẫn đến năng suất sữa được cải thiện trong chu kỳ sữa tiếp theo sau. Tuy nhiên, mục tiêu chính của nghiên cứu này là để đánh giá và nhận diện lượng bST ít hơn thích hợp để tiêm truyền. ảnh hưởng của lượng bST tiêm được đánh giá bằng cách đo lường VCKAĐ, KLCT, ĐTT , nồng độ của ST, IGF-I , INSULIN, T3, T4, glucose và NEFA trong huyết tương, và năng suất sữa tiếp theo (0-60 ngày) khi các bò cái được tiêm trong thời gian cả hai giai đoạn trước và sau khi đẻ.

25 bò cái Holstein đẻ lứa con ra đã được chỉ định ngẫu nhiên vào một trong 4 nhóm thí nghiệm khoảng 5 tuần trước khi chờ sinh bê. Nhóm đối chứng không tiêm bST hoặc là tiêm dịch tá dược (7 bò cái), trong khi các bò cái tiêm 2 tuần một lần với liều 0.2; 0.4 hoặc 0.6 ml POSILAC (500 mg bST trong 1.4 ml, Mosanto, St. Louis, MO) đã được tiêm 5.1 mg bST/ ngày ( 6 bò cái); 10.2 mg bST /ngày (6 bò cái) hoặc là 15,3 mg bST /ngày (6 bò cái). Một bò cái trong mỗi nhóm tương ứng 5.1 mg bST /ngày và 15,3 mg bST/ngày đã bị loại trừ do bệnh viêm vú lâm sàng và sốt sữa. Số lượng các chu kỳ sữa trung bình trước đây của các bò cái trong 4 nhóm thí nghiệm, lúc bắt đầu thí nghiệm là 2,4; 2,4; 2.4 và 2.5; tương ứng. Các mũi tiêm bắt đầu 28± 3 ngày trước khi chờ sinh bê. Không lưu ý đến ngày mũi tiêm cuối cùng trước khi sinh bê, mũi tiêm sau khi đẻ đầu tiên trong vòng 24 h sinh bê và các mũi tiêm sau đó là ở khoảng cách 2 tuần với mũi tiêm cuối cùng là 56 ngày. Các mũi tiêm bST đã tiêm dưới da ở vùng sau xương bả vai hoặc là ở bên trái hay bên phải hốc u ngồi trực tràng, sau khi thu thập máu, nhưng trước khi cho ăn buổi sáng hay vắt sữa. Khối lượng cơ thể (KLCT ) và điểm thể trạng (ĐTT ) của các bò cái lúc bắt đầu thí nghiệm tương ứng có phạm vi từ 544 đến 770 kg và 3,25 đến 4,25 và độ dài thời kỳ cạn sữa, trung bình là 55,0; 55,2; 57,6 và 56,6 ngày; tương ứng. Tất cả các bò cái đã sinh bê trong một giai đoạn thời gian 4 tháng (tháng 2 đến tháng 5). Thu thập mẫu giai đoạn trước khi đẻ khác với giai đoạn chờ sinh bê ( 28 ngày), bởi vì sinh bê sớm hay muộn nhưng lấy mẫu giữa ngày 17 đến 31 và tất cả các bò cái trong 3 nhóm tiêm bST nhận được ít nhất 2 mũi tiêm bST trước khi sinh bê.

Các bò cái đã được chăm sóc quản lý ở chuồng có ô riêng có đường dẫn ra chỗ đất trống nơi chúng sinh bê. Chuồng bò đực lắp đặt có 48 cửa cho ăn máy điều khiển điện tử Calan (American Calan, Inc., Northwood, NH) và các bò cái được huấn luyện để sử dụng cửa ra vào trong thời gian tuần thứ nhất trước khi ghi chép đo lường VCKAĐ. Nước uống có sẵn trong các máng nước áp suất tự đọng để dùng tự do. Thức ăn được đưa vào một lần một này (10h00- 12h00) và việc chỉnh lý được thực hiện hàng ngày để chấp nhận 5-10% thức ăn thừa còn sót con vật bỏ lại không ăn. Bắt đầu 4 tuần trước khi chờ sinh bê, chế độ ăn đã được chuyển hướng từ một khẩu phần xa cạn sữa (FOD) thành một khẩu phần ăn Ion âm (anion) gần sát cạn sữa (CVD) (Bảng 1) để giảm xuống rủi ro chứng tụt can xi huyết (hypocalcaemia) sau khi đẻ. Sau khi sinh đẻ, tất cả các bò cái được nuôi bằng một khẩu phần phối hợp đầy đủ dựa trên thức ăn ủ chua cây ngô, hạt bông nguyên vẹn (HBNV), và thức ăn tinh dạng hạt để đáp ứng nhu cầu của các bò cái cao sản (bảng1). Các khẩu phần CUD và khẩu phần phối hợp đầy đủ (TMR) (~ 500g) được thu thập trong thời gian mỗi giai đoạn 2 tuần đã được hợp lại và một mẫu phụ đã được phân tích để lấy hàm lượng VCK, Protein thô, ADF, NDF, xơ thô, NEL, Protein hoà tan và mỡ tổng số (NEDHIA phòng thí nghiệm thức ăn thô xanh NEDHIA; Ithaca, NY).

Bảng 1: Đậm độ vật chất khô và thành phần hóa học của CUD và khẩu phần phối hợp đầy đủ cho bò tiết sữa để cho bò Holstein ăn. 1

Sản lượng sữa đã được ghi nhận mỗi trong 3 lần vắt sữa hàng ngày từ 3 đến 60 ±2 ngày sau khi đẻ. Các mẫu sữa đã được thu thập một ngày mỗi tuần tại mỗi trong 3 lần vắt sữa trong 9 tuần đầu của chu kỳ sữa. Chúng được bảo quản dùng biện pháp bảo quản quang phổ MicrotabTM. (D& F Control System, Inc). Và được phân tích để lấy hàm lượng chất béo, protein, và các tế bào soma (SCC) ở phòng thí nghiệm DHI ( South east Dairy Lab, Mc Donough, GA).

Các mẫu máu được thu thập từ mạch đuôi của tất cả các bò cái 3 lần hàng tuần trước khi cho ăn hoặc vắt sữa buổi sáng (7h30- 10h00) bằng cách sử dụng các kim lấy máu (vacutainerR) ( 2.54cm) và ống tuýp (10x100mm) chứa heparin sodium (Becton- Dickison. Fairlawn, NJ). Các mẫu được đặt vào nước đá ngay lập tức sau khi thu thập, ly tâm trong vòng 2h ở tốc độ là 3000 vòng/ phút trong 30 phút ở 5 0C (JouanGR 412 centrifuge, Wibchester, VA) và huyết tương đã được thu thập và bảo quản ở các ống tuýp Polypropylene ở – 20 0 C cho đến tận lúc phân tích.

Các kỹ thuật phân tích miễn dịch phóng xạ kháng thể kép đã được sử dụng để xác định nồng độ của ST, T3, T4 ( Garcia, 1998) IGF-I (Abribat và cs., 1990) và INC (Malven và cs., 1987) trong huyết tương. Một kỹ thuật so màu enzyme (NEFA C, Wako Pure Chemical Industries, Osaka, Japan) đã được sử dụng để xác định số lượng NEFA trong huyết tương như đã được Johuson và Peters (1993) mô tả. Glucose đã được phân tích sử dụng thủ tục men glucose oxidase (Kit 510, Sigma diagnostics, St. Louis, MO) như đã được mô tả do Raabo và Terkildsen (1960). Phân tích glucose và NEFA đã được tiến hành ở 96 đĩa vi hiệu giá chuẩn.

Các số liệu được xử lý là các bộ số liệu riêng biệt trước và sau khi đẻ sử dụng phương pháp phân tích phương sai bình phương nhỏ nhất (SAS, 1991) và các thủ tục phối hợp Proc của SAS (Littell và cs., 2000). Các số liệu đã xử lý là VCKAĐ, ĐTT , KLCT, sản lượng sữa và sản lượng sữa quy đổi 3,5 % chất béo, các thành phần cấu thành sữa, và nồng độ của Somatotropin, Insulin, IGF-I , T3, T4, và NEFA trong huyết tương. Các giai đoạn thời gian được cân nhắc để xử lý số liệu là giai đoạn trước khi đẻ toàn đàn (ngày 28 đến ngày 0), các tuần cụ thể trong giai đoạn này, giai đoạn sau khi đẻ toàn đàn ( ngày 1 đến ngày 60), các tuần trong giai đoạn này, và cụ thể là đối với VCKAĐ thì các giai đoạn thời gian 0 – 21 và 0-60 ngày say khi đẻ. Xử lý số liệu được đặt kế hoạch trước để đánh giá các mối sai khác trong số các lô thí nghiệm đối với tất cả các biến số đã đo lường. Các mô hình gồm có ảnh hưởng chính của thí nghiệm (Th.n), tháng sinh bê (Th.sb), mối tương tác 2 yếu tố Th.n x chúng tôi và sử dụng bò cái ( Th.n x chúng tôi và giới hạn sai số. Các mô hình cũng đã được sử dụng đó gồm có các tuần hay các ngày đến bậc cao nhất có ý nghĩa đối với các giai đoạn trước và sau khi đẻ toàn đàn, vì thích hợp. Các số trái ngược của các số trung bình thí nghiệm đã được so sánh đối với giai đoạn trước khi đẻ v cả đối với giai đoạn sau khi đẻ. Phân tích các mô hình cũng gồm có KLCT và ĐTT là các đồng biến số khi phù hợp. ý nghĩa thống kê đã được khai báo ở mức (p<0.05) với xu hướng chỉ rõ đến tận mức độ p< 0,01.

Bảng 2: Các số trung bình bình phương nhỏ nhất và SE đối với lượng vật chất khô ăn được, điểm thể trạng và thể trọng của các bò cái ở 4 nhóm thí nghiệm trong thời kỳ trước khi đẻ 1.

1 Các thí nghiệm = không tiêm bST; 5.1 mg bST/ngày; 10.2 mg/ngày; 15.3 mg/ngày. 2 Điểm thể trạng được tính toán dựa trên mức chia độ từ 1 đến 5 (Ferguson và cs., 1994). 3 LSM = các số trung bình bình phương nhỏ nhất.

Bảng 3: Các số trung bình bình phương nhỏ nhất và SE đối với vật chất khô ăn được, điểm thể trạng, thể trọng sau khi đẻ, sản lượng sữa và sản lượng sữa quy đổi 3.5% chất béo và SCC của các bò cái Holstein.

1 Các thí nghiệm: Không tiêm bST; 5.1 mg/ngày; 10.2 mg bST/ngày; 15.3 mg bST /ngày. 2 trung bình sau khi đẻ 0 – 21 ngày. 3 trung bình sau khi đẻ 0 – 60 ngày. 4 SCC = tổng số các tế bào Soma (x10 3).

Sau khi đẻ: Phân tích phương sai bình phương nhỏ nhất của VCKAĐ trung bình đối với hai giai đoạn sau khi đẻ đã đựơc đánh giá (0 đến 21 ngày và 0 đến 60 ngày) ở Bảng 3. Có một xu hướng đối với ảnh hưởng Th.n trong suốt thời gian sau khi đẻ 21 ngày( p<0.08) nhưng không có ảnh hưởng do chúng tôi hoặc là do tương tác 2 yếu tố. Trong suốt thời gian từ 0 đến 60 ngày thì giá trị trung bình VCKAĐ sau khi đẻ 0 đến 60 ngày không khác nhau do Th.n, chúng tôi hoặc là do mối tương tác hai yếu tố. Theo khía cạnh khác, VCKAĐ ở 1 tuần (p< 0.04) và 4 tuần (p<0.05) là cao hơn đối với các bò cái đã đựơc tiêm với liều 15.3mg bST /ngày hơn là các bò cái không được tiêm hoặc là được tiêm với liều 5.1 mg bST /ngày có VCKAĐ cao nhất (p<0.05; biểu1 ). Các mối sai khác không có ý nghĩa đã được phát hiện giữa các lô khác. Tuy nhiên, các bò cái được tiêm với liều 5.1 mg bST / ngày có khuynh hướng có lượng ăn được thấp nhất lúc 2 tuần và 3 tuần (p<0.08) và VCKAĐ của các bò cái không được tiêm bST có xu hướng thấp hơn các bò cái được tiêm với 15.3 mg bST / ngày (p<0.07)

Phân tích phương sai bình phương nhỏ nhất đối với KLCT và ĐTT trong suốt giai đoạn sau khi đẻ toàn đàn (0 đến 60 ngày) có ở bảng 3. Mặc dầu không có ảnh hưởng do Th.n, chúng tôi hoặc là mối tương tác 2 yếu tố đã được phát hiện đối với KLCT, một chiều hướng về ảnh hưởng Th.n đã được phát hiện đối với ĐTT (p<006). Tổng thể, các khuynh hướng đối với sự thay đổi ở KLCT và ĐTT là tương đương và đối ngược nhau mà sự thay đổi của VCKAĐ xảy ra trong suốt giai đoạn sau khi đẻ 0- đến 60 ngày. (Biểu 2 và 3). Những vấn đề trái ngược không trực diện đã cho thấy rằng các bò cái được tiêm với liều 10.2 và 15.3 mg bST / ngày đã duy trì ĐTT của chúng tốt hơn trong suốt giai đoạn sau khi đẻ toàn đàn tốt hơn so với các bò cái không được tiêm hoặc được tiêm với liều 5.1 mg bST / ngày (Bảng 3). Các bò cái được tiêm với liều bST cao nhất cũng có xu hướng có giá trị trung bình ĐTT cao hơn (p< 0.06) so với các bò cái ở các lô thí nghiệm khác trong thời gian giai đoạn sau khi đẻ toàn đàn (3.46 so với 3.15; 3.13 và 3.21 tương ứng).

Chiều hướng KLCT hàng tuần (Biểu 2) và ĐTT (Biểu 3) qua các lô thí nghiệm cũng đã được phân tích. Giá trị KLCT trung bình trong giai đoạn sau khi đẻ toàn đàn không khác nhau do xử lý. Các bò cái trong tất cả 4 nhóm thí nghiệm đã mất ĐTT sau khi sinh bê, như điều mong muốn, nhưng hồi phục ĐTT do các bò cái được tiêm 2 liều lớn nhất bST (10.2 và 15.3 mg/ ngày) đã được thừa nhận sau 5 tuần tiết sữa, nhưng điều này xảy ra 2 tuần sau đối với các bò cái không đựơc tiêm hoặc được tiêm đối với liều 5.1 mg bST / ngày. Các bò cái được tiêm với liều 15.3 mg bST / ngày có chiều hướng có ĐTT cao hơn trong suốt thời gian sau khi đẻ 2 tuần so với các bò cái không được tiêm hoặc được tiêm với liều 5.1 mg / ngày (p<0.01). ĐTT được duy trì tốt hơn ở các bò cái được tiêm với số lượng bST cao hơn (15.3mg/ ngày so với liều 5.1 mg/ ngày (p<0.08) và cao hơn lúc 3 tuần so với các bò cái không được tiêm (p<0.01). ĐTT được duy trì tốt hơn ở các bò cái được tiêm với số lượng bST cao hơn (15.3 mg/ ngày so với ĐTT ở các bò cái không được tiêm hoặc được tiêm với liều 5.1 mg bST/ngày, nhưng phát hiện thấy không có các mối sai khác giữa các tuần ( Biểu 3).

Sản lượng sữa và sản lượng sữa quy đổi 3.5 % chất béo. Trung bình bình phương nhỏ nhất sản lượng sữa quy đổi 3.5 % chất béo qua suốt 60±2 ngày thể hiện ở bảng 3 và các chiều hướng đối với SLS trải qua 60 ngày đầu của chu kỳ sữa thể hiện ở biểu 4. Các mối sai khác không có ý nghĩa đã được khám phá thấy vì Th.n, chúng tôi hoặc là tương tác hai yếu tố. Các bò cái được tiêm với liều 15.3 mg bST / ngày có chiều hướng có sản lượng sữa hàng ngày cao nhất lúc bắt đầu chu kỳ (p<0.09), và có sản lượng sữa và sản lượng sữa quy đổi 3.5 % mỡ sữa theo giá trị tính trung bình theo con số là lớn nhất (35.4 và 36.7 kg/ ngày, tương ứng) trong suốt 60 ngày đầu của chu kỳ sữa. Sản lượng sữa có xu hướng thấp hơn đối với các bò cái không được tiêm và được tiêm với liều 15.3 mg/ ngày trong suốt giai đoạn chu kỳ sữa toàn thể (0 đến 60 ngày). Các bò cái được tiêm với hai liều bST lớn nhất (10.2 và 15.3mg/ ngày) có xu hướng có SCC bị giảm xuống so với các bò cái không được tiêm hoặc tiêm với liều 5.1 mg bST / ngày (198.3±103.5 so với 703.2 ± 119.2x 10 3; p<0.08), nhưng không có các mối sai khác đã được phát hiện thấy do chúng tôi hoặc là tương tác hai yếu tố. Tổng thể các tỷ lệ % yếu tố thành phần sữa không khác nhau do xử lý tiêm, chúng tôi và không có mối tương tác được phát hiện thấy.

Bảng 4: Các số trung bình bình phương nhỏ nhất và SE đối với các hormone (-21 đến -1 ngày) trước khi đẻ, IGF-I, glucose và NEFA của các bò cái Holstein.

1 Các thí nghiệm: Không tiêm bST; 5.1 mg/ngày; 10.2 mg bST/ngày; 15.3 mg bST /ngày. 2 trung bình trước khi đẻ -21 – 0 ngày.

Trước khi đẻ: Các nồng độ ST, INS, T3, T4, IGF-I glucose và NEFA huyết tương của đã được đánh gía từ – 21 ngày đến -1 ngày; các giá trị trung bình và SE thể hiện ở bảng 4. Không có sự khác nhau về nồng độ trung bình của T3, T4, INS, glucose hoặc NEFA đã được phất hiện thấy trong suốt giai đoạn sau khi đẻ do Th.n, nhưng ST (p<0.01) và IGF-I (p<0.05) thì khác nhau. Những con số trái ngược của các số trung bình mẫu xử lý cho thấy rằng các nồng độ trung bình của ST là cao hơn đối với các bò cái được tiêm với hai liều lớn nhất (10.2 và 15.3 mg/ ngà; 15.17 và 20.15 mg/ ngày ) so với ở các bò cái không được tiêm và được tiêm với liều 5.1 mg bST / ngày (4.25 và 5.27 mg/ ml). Mặc dù các nồng độ của ST không khác nhau có ý nghĩa giữa các lô thí nghiệm lúc- 3 tuần, các bò cái được tiêm với 2 liều bST lớn nhất (10.2 và15.3 mg/ngày) có chiều hướng có nồng độ cao hơn tại lúc cả -2 tuần (p< 0.06) và – 1 tuần (p<0.01). Sự gia tăng nồng độ trung bình của ST cao hơn gấp 4 đến 5 lần, tương ứng, trong cùng khoảng cách thời gian đối với bò cái được tiêm với liều 10.2 và 15.3 mg bST /ngày.

Nồng độ huyết tương trung bình của INS trong huyết tương trong suốt giai đoạn trước khi đẻ không thấy khác nhau giữa các lô thí nghiệm (Bảng 4) [ Những con số trái ngược của các số trung bình thí nghiệm cho thấy rằng vào lúc 3 tuần, các bò cái được tiêm với 2 liều cao nhất (10.2 và 15.3 mg/ngày ) có nồng độ INS cao hơn có ý nghĩa so với những con bò không được tiêm hoặc được tiêm với liều 5.1 mg/ngày (p<0.03), trong khi mà nồng độ IINSS ở các bò được tiêm với liều 15.3 mg bST/ngày cao hơn so với nồng độ INS ở các bò không được tiêm hoặc được tiêm hoặc được tiêm với liều 5.1 mg bST lúc – 2 tuần (p<0.02). Nồng độ glucose và NEFA sau khi đẻ trung bình cũng cho thấy ở bảng 4. Nồng độ huyết tương trung bình của chẳng chất nào trong số các chất này khác nhau do Th.n, chúng tôi hoặc mối tương tác hai yếu tố. Tuy nhiên, trong suốt tuần sinh bê, thì nồng độ NEFA huyết tương trung bình tính theo con số là thấp nhất ở các bò được tiêm với liều 15.3 mg bST /ngày (368.2 àep/L) và có chiều hướng không có ý nghĩa đối với nồng độ NEFA cao hơn tăng dần ở các nhóm bò cái vì lượng bST tiêm giảm xuống (395.3; 449.6 và 586.6 à ep/L tương ứng).

Có chiều hướng gia tăng tuyến tính ở IGF-I vì liều lượng bST tăng lên. Các bò cái không được tiêm bST có nồng độ IGF-I huyết tương trung bình tính theo con số là thấp nhất (113 mg/ml), trái lại nồng độ ở các bò cái được tiêm với liều 5.1 và 10.2 mg/ bST /ngày là ở giữa (142 và 146 ng/ml) và nồng độ cao nhất là ở bò được tiêm với liều 15.3 mg/ngày (171 ng/ml). Tổng thể, nồng độ huyết tương trung bình của IGF-I giảm xuống trong suốt tuần trước sinh bê ở tất cả các nhóm bò thí nghiệm.

Nồng độ INS huyết tương trong suốt giai đoạn trước khi đẻ không khác nhau giữa các thí nghiệm (Bảng 4).

Sau khi đẻ: Đối với nồng độ ST, ảnh hưởng của Th.n (p<0.01); chúng tôi (p<0.06) có ý nghĩa và mối tương tác hai nhân tố (p<0.05) đã được phát hiện (Bảng 5). Nồng độ ST trung bình bình phương nhỏ nhất đối với bò không được tiêm hoặc được tiêm với liều 5.1 mg/ngày là tương tự nhau (bảng 5), nhưng chỉ có khoảng 1/3 nồng độ trung bình của các bò mà được tiêm sau khi đẻ với liều một trong hai liều bST cao nhất (10.2 và 15.3 mg/ngày )

Nồng độ INS huyết tương trung bình bình phương nhỏ nhất không khác nhau do Th.n, chúng tôi hoặc tương tác hai yếu tố đó (Bảng 5).

Tuy nhiên, như mong muốn nồng độ INS đã bị suy giảm sau khi sinh bê và vẫn còn thấp trong suốt 5 tuần đầu tiết sữa. Sau đó, sự tăng lên ở INS đã được theo dõi đối với các bò cái ở tất cả các lô thí nghiệm. Tỷ số ST /INS là cao hơn (p<0.03) đối với các bò được tiêm vói hai liều bST cao nhất.

Đối với IGF-I , không có ảnh hưởng Th.n, chúng tôi hoặc tương tác hai yếu tố đã được phát hiện trong đầu kỳ sữa (0 – 60 ngày). Tuy nhiên, nồng độ IGF-I trung bình (Bảng 5) trong suốt giai đoạn sau khi đẻ này đối với các bò được tiêm với hai liều cao nhất (10.2 và 15.3 mg bST /ngày) là khoảng 30% cao hơn so với nồng độ của các bò cái không được tiêm với liều 5.1 mg bST /ngày . Xu hướng về nồng độ cũng khác nhau trong suốt 8 tuần đầu của chu kỳ sữa.

Phân tích phương sai theo phương pháp bình phương nhỏ nhất đối với T3 và T4 ở bảng 5. Không có ảnh hưởng của Th.n, chúng tôi hoặc là tương tác hai yếu tố đã được phát hiện đối với T4. Tuy nhiên, nồng độ trung bình bình phương nhỏ nhất của T4 đối với các bò cái được tiêm với hai liều cao nhất bST (10.2 và 15.3 mg/ngày ) là cao hơn theo con số so với bò cái không được tiêm hoặc được tiêm với liều 5.1 mg/ngày (bảng 5). Đối với T3, các số trung bình có chiều hướng khác nhau qua các lô thí nghiệm (p<0.08) và mối tương tác hai nhân tố là có ý nghĩa (p<0.01). Chiều hướng đối với nồng độ trung bình của T3 là tương tự với nồng độ T4. Nồng độ trung bình bình phương nhỏ nhất của T3 là cao nhất đối với các bò được tiêm với liều bST cao nhất (15.3 mg/ngày) và nồng độ có chiều hướng giảm xuống đều đều do lượng bST tiêm vào giảm xuống.

Bảng 5: Các số trung bình bình phương nhỏ nhất và SE đối với các hormone (0 đến 60 ngày) sau khi đẻ, IGF-I, glucose và NEFA của các bò cái Holstein.

1 Các thí nghiệm: Không tiêm bST; 5.1 mg/ngày; 10.2 mg bST/ngày; 15.3 mg bST /ngày. 2 trung bình bình phương nhỏ nhất trong thời gian sau khi đẻ 0 – 60 ngày.

Đối với glucose huyết tương và NEFA, không có sự khác nhau được phát hiện do Th.n, chúng tôi hoặc tương tác 2 nhân tố; các số trung bình ở bảng 5. Trong suốt giai đoạn đầu sau khi đẻ không có xu hướng có tính hệ thống được chứng kiến thấy qua các tuần. Nồng độ NEFA huyết tương cao với bò ở tất cả lô thí nghiệm trong suốt 2 tuần đầu của chu kỳ sữa (-900à ep/L) nhưng bị suy giảm về sau này để cho đạt đến -365 à ep/L lúc 8 tuần sau khi đẻ.

Trong thí nghiệm hiện nay, 3 lượng bST hàng ngày đã được đánh giá (5.1; 10.2 và 15.3 mg bST /ngày ). Các giá trị này chỉ là 14.3 đến 42.8 % của giá trị mà hiện nay được sử dụng để nâng cao tiết sữa (POSILACR 35.7 mg bST / ngày), nhưng hai liều lượng cao hơn có xu hướng kích thích đáp ứng dương tính ở VCKAĐ sau khi đẻ và năng suất sữa. các bò cái được tiêm với liều 15.3 mg bST / ngày cũng có VCKAĐ cao hơn theo số trung bình so với các bò cái không được tiêm hoặc các bò đó nhận được liều thấp nhất (5.1m1 ) trong suốt thời gian 60 ngày đầu sau khi đẻ.

Các kết quả gợi ý rằng 2 liều lượng bST cao nhất đã đánh giá là (10.2 và 15.3 mg bST / ngày) trong suốt giai đoạn chuyển tiếp. Và đi vào đầu kỳ sữa đã gây ra sự thay đổi nồng độ ST các hormones trao đổi và IGF-I trao đổi ưu tiên ảnh hưởng dương tính đến VCKAĐ, ĐTT và SLS của các bò đã tiêm. Không có chứng cứ nào cho thấy tiêm bST gây ra cân bằng năng lượng âm tăng thêm hoặc là có ảnh hưởng dương tính hoặc âm tính rõ rệt đến sức khoẻ khi tiêm với lượng bST thấp nhất. Bởi vì ảnh hưởng dương tính đến ĐTT và SLS và không có ảnh hưởng gây hại rõ rệt đến sức khoẻ và cân bằng năng lượng, sử dụng liều bST thấp hơn (10.2 và 15.3 mg bST / ngày) trong suốt giai đoạn chuyển tiếp có thể là một chiến lược quản lý để cải thiện năng suất bò cái. Hai liều bST cao nhất nên được đánh giá với một số lượng bò cái lớn hơn trong suốt giai đoạn chuyển tiếp và đầu kỳ sữa để đánh giá hiệu ứng theo và các đáp ứng sinh lý khác như là tỷ lệ mắc bệnh và ảnh hưởng của sinh sản.

Trong Giai Đoạn 3 Tháng Đầu Thai Kỳ, Mẹ Bầu Nên Ăn Gì?

Nhìn chung, phụ nữ mang thai cần ăn nhiều thức ăn có chứa protein, khoáng chất, vitamin phong phú như: thịt nạc, sữa, trứng gà, cá, tôm, rong biển, những loại rau xanh, hoa quả tươi…

Ba tháng đầu mang thai, do thai nhi phát triển chậm (mỗi ngày tăng khoảng 1g), nên phụ nữ mang thai cần phải bổ sung dinh dưỡng đặc biệt. Nếu không có hiện tượng “nghén” thì mỗi ngày ăn 3 bữa, bổ sung thêm một chút thức ăn có giá trị dinh dưỡng là được. Tuy nhiên, bạn vẫn cần phải bổ sung các chất quan trọng trong thời gian mang thai như axit folic, chất sắt… và đừng quên bổ sung nước thường xuyên.

Nghén bình thường: Có cảm giác buồn nôn và nôn, nhưng những lúc khác vẫn ăn được. Khi ăn được thì bạn chú ý ăn uống đầy đủ dinh dưỡng cần thiết.

Nghén quá mức: Nôn ói liên tục mà không ăn, uống được dẫn đến tình trạng thiếu nước, thiếu dinh dưỡng nghiêm trọng. Tình trạng nghén quá mức này còn gọi là “chết đói” do thai kỳ, đe dọa tính mạng của người mẹ và thai nhi.

Nếu hay bị buồn nôn vào sáng sớm thì khi thức giấc, bạn đừng vội trở dậy ngay mà hãy nằm yên trên giường và ăn nhẹ. Lúc này, nên ăn một ít bánh ngọt, đặc biệt là loại bánh có vị gừng. Sau khi ăn 10 phút mới rời khỏi giường. Một số loại thức ăn có tác dụng chống nôn ói là hoa hồi, cau, cà rốt, sơn trà, chanh… Có thể ăn vặt các loại quả khô như: đậu phộng, hạt dưa, trám, ô mai… Trong suốt thai kỳ, tránh các xung đột hay những tình huống gây ức chế thần kinh khác.

– Thay đổi cách nấu nướng cho dễ ăn hơn, tránh ăn các loại thức ăn có mùi khó chịu.

– Đừng để quá đói hoặc ăn quá no.

– Ăn nhiều bữa trong ngày, mỗi lần một ít.

– Khi ăn cơm, không nên ăn canh, hoặc chỉ dùng ở mức tối thiểu.

– Không ăn quá nhiều đồ mỡ hoặc gia vị.

– Tránh thực phẩm gây kích thích dạ dày và đường ruột.

Nên ăn gì?

Nên ăn các chất có giá trị dinh dưỡng cao như: thịt heo nạc, trứng, sữa, gia cầm, hải sản, nghêu, sò; các loại rau trái giàu vitamin, dễ tiêu hóa như cà chua, cải trắng, cam, dứa…

Trong Giai Đoạn Phát Triển

Giai đoạn đầu đời là khoảng thời gian vàng để bé có thể phát triển toàn diện một cách tốt nhất. Đây chính là lý do cha mẹ luôn cố gắng đầu tư hết mức có thể, tìm mọi nguồn dinh dưỡng tốt nhất cho con trong giai đoạn này. Ngoài sữa mẹ vẫn luôn là nguồn dinh dưỡng tốt nhất cho trẻ nhỏ thì không thể bỏ quên sữa công thức. Bởi lẽ không thể phủ nhận rằng, sữa tăng cân dù có cao cấp đến như thế nào vẫn không thể tốt bằng sữa mẹ. Vậy nhưng, nó cũng góp phần cung cấp đầy đủ chất giúp bé lớn khôn, tăng cân đều và phát triển trí não.

1. Tình trạng suy dinh dưỡng, thấp còi của trẻ em Việt Nam

Theo thống kê của hội dinh dưỡng quốc gia Việt Nam, tính đến năm 2014 thì có tới hơn 2,2 triệu trẻ suy dinh dưỡng thể thấp còi. Cho đến tận thời điểm hiện tại, con số này có giảm nhưng vẫn không khả quan. Thực tế thì, nếu cứ xét 3 trẻ Việt Nam ở độ tuổi dưới 5 tuổi thì có 1 trẻ bị suy dinh dưỡng. Con số đáng buồn này đang rung lên hồi chuông cảnh báo cho chất lượng cũng như tình trạng sức khỏe của người Việt Nam trong tương lai.

Bởi trẻ bị suy dinh dưỡng hoặc không được bổ sung đầy đủ chất dinh dưỡng khi còn bé sẽ không được phát triển tốt như các trẻ em khác. Cụ thể, năng suất làm việc của chúng kém, thường hay mệt mỏi, sức khỏe kém,… Ngoài ra, suy dinh dưỡng ngày bé còn khiến trẻ em có nguy cơ cao mắc các bệnh truyền nhiễm và bệnh ung thư. Hoặc có thể mắc chứng béo phì khi trưởng thành do chiều cao không được cải thiện.

2. Nên cho trẻ em uống sữa tăng cân loại nào để phát triển toàn diện

2.1. Nên cho trẻ uống sữa nào?

Nói về sữa nhập khẩu, ngày này các mẹ đang quan tâm nhiều đến các dòng sữa như:

Sữa Meji của Nhật.

Sữa Morinaga của Nhật

Sữa Nan Nga

Sữa Aptamil của Đức

Sữa Glico của Nhật

Sữa Physiolac của Pháp

Các cái tên sữa ngoại này đã quá nổi tiếng và được không ít các bà mẹ Việt tin dùng. Còn về sữa Việt Nam, có rất nhiều mẹ không tin tưởng cho con dùng dòng sữa Việt Nam bởi hầu như các dòng sữa Việt thường gây nóng cho bé hoặc không thực sự giúp bé cải thiện cân nặng.

Hiểu được điều đó, Công ty cổ phần thực phẩm Nanofood cho ra đời dòng sữa rau từ “Chùm ngây” mang thương hiệu sữa thảo dược chùm ngây Babego. Đánh dấu một bước ngoặt mới cho thị trường sữa Việt. Sữa thảo dược chùm ngây Babego là thành quả nghiên cứu vất vả của 5 chuyên gia dinh dưỡng trong 3 năm. Các chuyên gia đã nghiên cứu trên thể trạng trẻ Việt về khả năng hấp thu dưỡng chất và nhu cầu cần các chất dinh dưỡng. Từ đó tạo ra công thức vàng với hàm lượng dinh dưỡng cân đối phù hợp để không gây tình trạng thừa chất và táo bón ở trẻ.

2.2. Công thức độc đáo của sữa thảo dược chùm ngây Babego

Ngoài nguồn dinh dưỡng đầy đủ giúp bé phát triển toàn diện thì Babego còn được làm nên bởi lá Chùm ngây chiết xuất theo công nghệ Nano. Đây được coi là điểm đột phá của sữa. Bởi thực tế, chưa hề có bất kỳ dòng sữa Việt nào tận dụng công dụng tuyệt vời của Chùm ngây. Người ta mới chỉ làm ra cốm chùm ngây để trộn vào thức ăn dặm cho bé. Nhưng không ai biết rằng Chùm ngây có thể cho được vào sữa của bé.

Chính điều này đã giúp sữa thảo dược chùm ngây Babego trở thành giải pháp hữu hiệu cho hàng triệu trẻ Việt bị còi xương, suy dinh dưỡng. Sữa có khả năng giúp bé tăng cân đều, cải thiện hệ miễn dịch, giúp bé tiêu hóa tốt hơn. Ngoài ra, sữa thảo dược chùm ngây Babego còn giúp tăng cường sức khỏe sau ốm của trẻ, hình thành hệ xương chắc khỏe. Đồng thời cải thiện tình trang táo bón, tiêu chảy, ốm vặt,… ở trẻ có sức đề kháng yếu.

3. Chuyên gia dinh dưỡng nói gì về sữa thảo dược chùm ngây Babego

Theo chúng tôi Lê Thị Hải, Viện Dinh dưỡng Quốc gia: Sữa thảo dược chùm ngây Babego có công thức thiết kế đặc biệt hơn so với các dòng sản phẩm khác trên thị trường là bổ sung thành phần chùm ngây chiết xuất theo công nghệ nano, nên khi các bé uống vào hấp thu rất tốt. Bột chùm ngây có trong sữa thảo dược chùm ngây Babego chứa đến 90 loại vitamin, khoáng chất khác nhau. Babego cung cấp cho bé đầy đủ 42 dưỡng chất thiết yếu, bổ sung Lysine, kẽm kích thích trẻ ăn ngon miệng, trị biếng ăn, giúp trẻ tăng cân tốt.

Ths. Bs Lê Thị Hải – Viện DD Quốc Gia đánh giá về dòng sữa rau đầu tiên từ “Chùm ngây”

4. Đánh giá của DS Nhà thuốc về sữa thảo dược chùm ngây Babego

DS Ngọc Lan, DS Nhà thuốc IDC Pharmacy cho biết trong các dòng sữa bột hiện nay, Babego được rất nhiều mẹ quan tâm về khả năng trị biếng ăn, chậm tăng cân ở trẻ. Theo DS, sữa thảo dược chùm ngây Babego cung cấp các dưỡng chất thiết yếu cần thiết cho sự phát triển toàn diện của trẻ. DS Lan cũng chia sẻ, theo kinh nghiệm của nhiều mẹ sau khi cho con sử dụng sữa thảo dược chùm ngây Babego thì: bé ăn ngon miệng hơn từ 7-10 ngày, chỉ sau 7-10 ngày hệ tiêu hóa của bé được cải thiện, hết táo bón, và đặc biệt bé tăng từ 500g-1kg sau 1 tháng uống sữa đều đặn.

Đánh giá khả năng trị biếng ăn, kém hấp thụ, chậm tăng cân của Dược sĩ nhà thuốc IDC

5. Phản hồi của các mẹ về sữa thảo dược chùm ngây Babego

Chia sẻ của mẹ Hằng sau 4 tháng cho con uống sữa thảo dược chùm ngây Babego

Phản hồi của các mẹ về khả năng trị biếng ăn của sữa thảo dược chùm ngây Babego

Phản hồi của các mẹ về khả năng tăng cân sau khi cho con uống sữa thảo dược chùm ngây Babego

Mỗi trẻ sẽ có một cơ địa khác nhau, sự hấp thu các dưỡng chất của mỗi bé cũng sẽ khác nhau. Do đó, mẹ phải chọn cho bé dòng sữa phù hợp với thể trạng của bé hơn là dòng sữa mang thương hiệu nổi tiếng nhưng lại được truyền tai nhau là phát triển trí tuệ. Muốn phát triển trí tuệ, trước hết trẻ phải phát triển toàn diện. Mà điều cần làm để bé phát triển toàn diện là trẻ được bổ sung dinh dưỡng từ thực đơn của trẻ và bổ sung qua các sản phẩm sữa phù hợp.

Nếu còn bất kỳ thắc mắc hãy liên hệ ngay Hotline/zalo: 0908.090.668 hoặc Inbox Fanpage để được tư vấn và giải đáp!

Chia Sẻ Các Loại Bột Ăn Dặm Cho Trẻ Dị Ứng Sữa Bò

– Phát ban: Phát ban là một trong những biểu hiện của dị ứng, đặc biệt là khi vết phát ban xảy ra đi kèm cùng với những triệu chứng khác.

– Quấy khóc, khó chịu: Bé quấy khóc liên tục và không nín trong một thời gian dài thì đó là dấu hiệu bất thường, có thể là biểu hiện trẻ bị dị ứng thức ăn dặm.

– Hệ hô hấp có vấn để: Trẻ có dấu hiệu bất thường về hô hấp thì đó có thể là do cơ thể bé đang phản ứng lại với protein trong bột ăn dặm.

– Thay đổi cân nặng: Khi bị dị ứng bột ăn dặm trẻ có thể bị tăng hoặc giảm cân bất thường.

– Chậm lớn: Trẻ bị dị ứng protein trong bột ăn dặm thường thiếu nguồn dinh dưỡng hợp lý do mất nước, giảm sự ngon miệng và thiếu năng lượng.

– Xì hơi: Tất cả các bé sơ sinh đều ‘xì hơi’. Nhưng ‘xì hơi’ đi kèm cùng với một vài triệu chứng như trên thì có thể bé đang bị dị ứng bột ăn dặm.

Đặc biệt lưu ý, một số trẻ sơ sinh xuất hiện các triệu chứng muộn (vài ngày sau khi ăn thức ăn chứa dị nguyên) gồm viêm da, viêm mũi dị ứng, hen, viêm xoang, ho dai dẳng, ra mồ hôi chảy nước mũi, biếng ăn, táo bón, giảm tập trung và ngủ kém.

Mức độ nặng của bệnh phụ thuộc vào thời gian xuất hiện phản ứng sau khi ăn, lượng thức ăn mà trẻ đã tiêu thụ và cơ địa của trẻ.

Làm gì khi trẻ bị dị ứng với bột ăn dặm?

Khi trẻ bị dị ứng và ba mẹ có nghi ngờ nguyên nhân là một thức ăn hoặc do – Tìm ra thủ phạm gây dị ứng:bột ăn dặm, hãy tạm ngừng việc dùng loại bột đó trong vài tuần, sau đó thử lại một lần nữa với số lượng thật ít. Nếu biểu hiện dị ứng lặp lại thì ba mẹ cần cho trẻ tránh xa loại thức ăn, loại bột đó là tốt nhất.

– Tập cho bé quen dần với thức ăn: Ba mẹ cần lưu ý, khi mới bắt đầu cho trẻ ăn dặm, chỉ nên cho trẻ tập ăn vài thìa nhỏ dạng loãng. Dần dần cha mẹ mới cho thêm từng loại thực phẩm vào bữa bột, với lượng từng ít một và quan sát cơ thể của trẻ xem có phản ứng gì với loại thức ăn đó hay không.

– Nên phân biệt dị ứng thức ăn với triệu chứng bất dung nạp thức ăn: ví dụ như bất dung nạp lactose. Do thiếu lactose là một loại enzym giúp tiêu hóa đường lactose trong sữa nên khi ăn sữa bò, trẻ sẽ có các triệu chứng như nôn, buồn nôn, tiêu chảy, chướng bụng, đầy hơi, thậm chí có thể nổi ban trên da. Tuy nhiên, hệ miễn dịch không tham gia vào cơ chế của các triệu chứng trên nên chúng ta không gọi đó là dị ứng. Một số nước kém phát triển, người dân ít tiêu thụ các chế phẩm chứa đường lactose (sữa và các chế phẩm làm từ sữa) nên tuyến tiết enzym lactose bị teo, gây ra hiện tượng bất dung nạp lactose mắc phải.

– Quan sát kỹ khi đưa ra kết luận: Khi cho trẻ ăn dặm, đôi khi thói quen vét thìa quanh miệng trẻ khiến trẻ bị nổi nốt, cha mẹ lại tưởng đó là dị ứng với bột ăn dặm. Hoặc trường hợp bé bị dị ứng bột ăn dặm cũng khá hay mắc phải đó là: bé bị dị ứng với bột ăn dặm mà trước đó bé đã từng ăn rất nhiều lần. Mẹ đừng lo lắng, cần tìm hiểu rõ nguyên nhân, rất có thể do mẹ bảo quản bột không đúng cách. Hãy kiểm tra lại xem, bột ăn dặm cho bé đã được bảo quản an toàn và đúng cách hay chưa? Cần quan sát nhiều lần trước khi quyết định nguyên nhân vấn đề là gì.

Biện pháp phòng ngừa dị ứng bột ăn dặm ở trẻ

– Phải kiểm tra thành phần ghi trên nhãn sản phẩm trước khi cho trẻ sử dụng, nhất là với những trẻ có cơ địa dị ứng. Ngay cả với những sản phẩm trẻ đã dùng quen vẫn phải đọc lại vì nhà sản xuất có thể thay đổi thành phần của chúng.

– Cần thông báo cho những người chăm sóc trẻ như bảo mẫu, cô giáo, ông bà nội/ngoại…về tình trạng dị ứng của trẻ để họ biết và tránh cho trẻ sử dụng sữa hay những sản phẩm có chứa sữa. Tốt nhất, cha mẹ nên có những mẩu giấy nhỏ dán trực tiếp lên những thực phẩm có chứa sữa.

– Các thức ăn hay gây dị ứng là sữa, hạnh nhân, hải sản, lạc, cá, trứng (đặc biệt lòng trắng trứng)… Nên nhớ rằng, hệ thống miễn dịch của trẻ cần có thời gian để hình thành phản ứng miễn dịch với dị nguyên có trong thực phẩm. Chính vì thế dị ứng thức ăn ít khi xảy ra khi lần đầu tiếp xúc với loại thức ăn đó.

– Chọn những loại bột ăn dặm không chứa sữa của 1 số nhãn hiệu: HiPP, Heinz, Nestle…

– Chuẩn bị sẵn một số thuốc chống dị ứng tại nhà theo chỉ định của bác sĩ để dùng khi cần thiết. Ở một số nước đã có loại Epinephrine được định liều sẵn trong một ống tiêm nhỏ nhằm có thể sử dụng trong trường hợp khẩn cấp.

– Thường các bé sẽ phải sử dụng sản phẩm thay thế sữa bò ít nhất 6 tháng, có khi 2 – 3 năm nên nếu được ba mẹ cần cho trẻ thăm khám ít nhất 2 lần/năm để xem trẻ đã dung nạp được sữa bò hay chưa.

– Nếu bé được phát hiện sớm với tình trạng dị ứng đạm sữa bò, các mẹ có thể thử và tập dần các sản phẩm có protein động vật khi bé được 8 tháng tuổi.

– Khi bé 10 tháng tuổi có thể cho bé dùng thử lại sữa bò để kiểm tra tình trạng dung nạp. Nếu bé vẫn tiếp tục dị ứng, mẹ dùng tiếp các sản phẩm thay thế cho bé, sau đó cứ từ 3 – 6 tháng lại tập lại.

– Nếu trẻ có biểu hiện bị phản ứng phản vệ cấp tính cần nhanh chóng đưa trẻ đến bệnh viện gần nhất để được cấp cứu kịp thời.

Một số loại bột ăn dặm cho trẻ dị ứng sữa bò

Bột ăn dặm HiPP không chứa sữa

Bột ăn dặm HiPP được sản xuất tại Đức. Đây là một thương hiệu bột ngoại được nhiều các mẹ Việt tin dùng. Bột ăn dặm HiPP được dành cho bé từ 4 đến 24 tháng tuổi. Đặc biệt không chứa gluten (protein ngũ cốc – cũng là thành phần dễ gây dị ứng). Những hương vị bột HiPP mặn cho bé dị ứng bột ăn dặm HiPP:

– Bột ăn dặm HiPP vị gạo nhũ nhi( baby rice ) (4 tháng)

– Bột ăn dặm HiPP vị ngũ cốc (bắp non) (4 tháng)

– Bột ăn dặm HiPP vị ngũ cốc tổng hợp (6 tháng)

Bột ăn dặm Heinz Anh, Nga mặn

Bột ăn dặm Heinz là thương hiệu bột ăn dặm đến từ Anh quốc. Thích hợp cho bé từ 4 đến 24 tháng tuổi, cung cấp chất dinh dưỡng cần thiết cho bé phát triển hoàn thiện hơn.

– Bột ăn dặm Heinz vị gà,

– Bột ăn dặm Heinz vị bò,

– Bột ăn dặm Heinz vị súp lơ – bông cải – phô mai,

– Bột ăn dặm Heinz vị mỳ Ý – rau củ – phô mai,

– Bột ăn dặm Heinz vị gạo và rau củ xay nhuyễn,

– Bột ăn dặm Heinz vị ngũ cốc – rau củ,

Bạn đang đọc nội dung bài viết Đáp Ứng Của Các Bò Cái Holstein Với Các Thí Nghiệm Xử Lý Tiêm Somatotropin Bò Khác Nhau Trong Giai Đoạn Chuyển Tiếp Và Đầu Kỳ Sữa trên website Europeday2013.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!